Chi tiết bài viết

Đường chân trời đã mất - Chương 7-1

Đường chân trời đã mất - Chương 7-1 Conway ngập ngừng đứng đó, hít thở trong bầu không khí nóng và ngột ngạt. Ở đây rất tối, phải một lúc mắt cậu mới quen với bóng tối, và dần ý thức được đây là một căn buồng thấp và đóng kín, giữa phòng bày chiếc bàn và vài chiếc ghế đơn sơ. Ngồi trên một chiếc ghế là một con người bé nhỏ, sắc mặt trắng bệch và đầy những nếp nhăn, ông ngồi im như tượng, giống như một bức tranh chân dung cổ điển bạc màu được vẽ bằng bút pháp sáng tối.

 photo Chuong7-1_zps66bc7cf8.jpg

CHƯƠNG 7

Conway theo ông Trương đi qua chiếc sân trống, cậu tỏ ra rất bình tĩnh nhưng những lời nói và hành động của cậu che dấu một khát vọng mãnh liệt. Nếu lời nói của người Trung Quốc này hàm chứa mọi điều, thì cậu cũng sẽ lập tức bước qua ngưỡng cửa của sự khám phá. Rất nhanh chóng cậu sẽ chứng thực được những suy đoán chưa hình thành của cậu có thật sự ít khả năng hơn sự xuất hiện của nó hay không.

Ngoài ra, đây cũng sẽ là cuộc gặp mặt lần đầu rất có ý nghĩa. Trước đây cậu cũng đã từng gặp mặt rất nhiều nhân vật cấp cao không hề tầm thường; cậu có một cảm hứng khác thường đối với họ, hơn nữa có thể đánh giá họ bằng thước đo chính xác và nhạy bén. Ngoài sự tự ý thức, giá trị sở trường của Conway là có kỹ năng sử dụng các loại ngôn ngữ lịch sự trong trường hợp cậu biết rất ít. Nhưng có lẽ trong trường hợp này, phần lớn thời gian của cậu sẽ giành để làm người nghe. Cậu chú ý đến việc ông Trương dẫn cậu đi qua những dãy buồng mà trước đây chưa từng nhìn thấy, những căn buồng này mờ ảo và đáng yêu dưới ánh sáng của đèn lồng. Phía sau dãy buồng là một chiếc cầu thang xoắn ốc dẫn đến trước một cánh cửa, người Trung Quốc này vừa gõ cửa, cánh cửa “kẹt” một tiếng rồi được một người phục vụ người Tạng mở ra, động tác rất nhanh nhẹn, làm cho Conway nghi ngờ rằng anh ta đã nấp sẵn ở phía sau cánh cửa. Căn buồng này nằm trên nóc của ngôi chùa Lạt Ma, nó được trang hoàng rất đẹp như có một vị trí đặc biệt, nhưng cậu lại cảm nhận rất mạnh mẽ rằng nó rất khô, nóng, giống như tất cả các cửa sổ đều bị bịt kín, hơn nữa không biết từ đâu còn có một chiếc máy sưởi hơi ấm đang chạy hết công suất, cậu bước vào trong liền cảm thấy ngạt thở, cho đến khi ông Trương cuối cùng cũng dừng bước trước cửa một căn buồng khác, nếu như trực giác của cơ thể là đúng thì nó giống như một phòng tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ.

“Đại Lạt Ma”, ông Trương nhẹ nhàng cất lời, “Muốn gặp riêng Ngài”. Ông Trương mở cánh cửa để cậu bước vào, rồi sau đó lại nhẹ nhàng khép cửa lại, và rời khỏi đó như chưa từng xuất hiện.

Conway ngập ngừng đứng đó, hít thở trong bầu không khí nóng và ngột ngạt. Ở đây rất tối, phải một lúc mắt cậu mới quen với bóng tối, và dần ý thức được đây là một căn buồng thấp và đóng kín, giữa phòng bày chiếc bàn và vài chiếc ghế đơn sơ. Ngồi trên một chiếc ghế là một con người bé nhỏ, sắc mặt trắng bệch và đầy những nếp nhăn, ông ngồi im như tượng, giống như một bức tranh chân dung cổ điển bạc màu được vẽ bằng bút pháp sáng tối. Nếu thật sự có một bức tranh xa vời với hiện thực như vậy thì đó là bức tranh này. Toàn bộ bức tranh thể hiện với thế giới bên ngoài một sự trang nghiêm cổ điển. Mọi cảm nhận mãnh liệt này làm cho bản thân Conway cũng cảm thấy kỳ lạ, cậu thậm chí còn nghi ngờ mọi thứ có phải là sự thật hay không, hay chỉ là phản ứng của bản thân trong bầu không khí ấm áp lúc chạng vạng này. Ánh mắt thần bí nhìn thẳng vào cậu, làm cho cậu cảm thấy chút choáng váng, cậu tiến lên vài bước rồi dừng lại. Viền bóng của người đàn ông ngồi trên chiếc ghế có rõ hơn một chút, nhưng vẫn không thể thấy rõ được một cơ thể thật sự. Đó là một người cao tuổi, không cao lắm, mặc bộ trang phục của người Hán. Những nếp áo và viền mép áo buông thõng trên một cơ thể gày gò. “Ngài là Conway?”, ông ta nói nhỏ bằng một thứ tiếng Anh chuẩn mực.

Âm thanh đó mang một chút u mê, nhưng lại làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu, giống như thứ phúc âm kỳ lạ vuốt ve quanh Conway, cho dù chủ nghĩa hoài nghi vốn có của cậu đang một lần nữa cố gắng làm cho cậu tin rằng nhiệt độ ấm áp của căn buồng đã làm cho cậu có cảm giác sai lầm này.

“Vâng”, cậu trả lời.

Âm thanh đó lại vang lên: “Rất vui được gặp Ngài, Ngài Conway. Tôi cho người mời Ngài tới đây là vì tôi nghĩ rằng, tốt nhất, chúng ta nên gặp nhau để nói chuyện. Xin mời Ngài ngồi bên cạnh tôi đây, đừng sợ. Tôi đã là một ông già rồi, sẽ không gây hại cho bất kỳ ai đâu”.

Conway trả lời: “Có được sự tiếp kiến của Ngài là một vinh hạnh không tầm thường”.

“Cảm ơn Ngài, Ngài Conway kính mến – Theo cách của người Anh các Ngài, tôi nên xưng hô với Ngài như vậy. Như tôi đã từng nói, việc này đối với tôi là thời khắc rất thoải mái. Thị lực của tôi rất kém, nhưng xin hãy tin rằng tôi có thể nhìn thấy Ngài từ trong tim, giống như nhìn bằng mắt thường. Từ khi Ngài tới cho đến lúc này, cuộc sống ở Shangrila vẫn tốt chứ?”

“Vâng, rất tốt”

“Thế thì tốt rồi, ông Trương đã cố gắng hết sức để thu xếp cho Ngài. Đây cũng là việc ông ấy sẵn sàng làm. Ông ấy cho tôi biết Ngài vẫn luôn thắc mắc về việc tôi là ai, Ngài cần biết để làm gì?”

“Tôi rất tò mò”

“Nếu bây giờ Ngài có thể bớt chút thời gian để nghe thì tôi rất sẵn lòng giới thiệu với Ngài những nét cơ bản về chúng tôi”.

“Được như vậy thì không còn gì bằng nữa!”

“Tôi cũng nghĩ như vậy, hơn nữa cũng hy vọng như vậy…, nhưng trước khi chúng ta bắt đầu….”

Người đàn ông nhẹ nhàng ra dấu tay, đến Conway cũng không cảm thấy gì nhưng ngay lập tức, một người phục vụ được gọi vào, và đã chuẩn bị một bộ trà đạo.

Trong chiếc khay sơn màu đặt một bát trà giống như chiếc vỏ trứng nhỏ, bên trong là thứ chất lỏng gần như trong suốt. Conway đã rất quen với kiểu lễ nghi này, nên không hề có chút biểu hiện nào. Lúc này, âm thanh đó lại tiếp tục vang lên: “Thói quen của chúng tôi Ngài cũng đã quen rồi, đúng vậy không?”

Một luồng xung động kỳ lạ không thể kiềm chế được làm cho Conway phải trả lời, “Tôi đã sống ở Trung Quốc một số năm rồi”.

“Ngài không hề cho ông Trương biết?”

“Không hề”

“Vậy sao tôi lại có vinh hạnh được biết như thế này?”

Những khi phải giải thích về động cơ của bản thân, Conway rất ít ứng phó kịp, nhưng lúc này cậu không nghĩ ra được lý do nào để trả lời. Cuối cùng cậu nói: “Nói thật là, tôi cũng không biết tại sao tôi lại cho Ngài biết, đó là cảm giác muốn làm như vậy.”

“Đây là lý do đúng nhất, tôi tin rằng, đối với hai con người muốn trở thành bạn bè….bây giờ, Ngài hãy nói đi, chén trà này có thanh khiết không? Trên khắp đất Trung Quốc có rất nhiều loại trà, hương vị cũng thuộc hàng tuyệt phẩm, nhưng với thứ trà được trồng ở vùng sơn cốc này, tôi cho rằng hoàn toàn không kém gì các loại trà khác.”

Conway nâng chén trà lên ngang miệng, nhấp một ngụm. Mùi vị thanh khiết, thơm nồng, hương vị còn đọng lại vấn vương mãi trên đầu lưỡi. Cậu đáp: “Mùi vị rất thanh khiết, và cũng rất đặc biệt”.

“Đúng vậy, cũng giống như các loại dược thảo khác được trồng ở vùng sơn cốc này, loại trà này độc đáo và rất quý, nhưng phải thưởng thức từ từ - đây không chỉ là nhu cầu dùng trong các lễ nghi và thưởng thức, mà còn là niềm vui thưởng thức trà ở mức độ cao nhất. Đó là lời khuyên bảo nổi tiếng từ Cố Khải Chi khoảng 1500 năm trước. Năm đó ông luôn chậm rãi thưởng thức từng khẩu mía, không muốn nuốt đi ngay phần tinh túy của nước mía, ông giải thích rằng – Đó là đưa bản thân “Dần tiến vào cảnh giới tươi đẹp”. Không biết Ngài đã từng nghiên cứu về các điển cố nổi tiếng của Trung Quốc chưa?”

Bản dịch riêng cho www.luyendichtiengtrung.com

                                                     

LỚP LUYỆN DỊCH VĂN BẢN liên tục nhận học viên bạn nhé!