Chi tiết bài viết

Đường chân trời đã mất - Mở đầu 2

Đường chân trời đã mất - Mở đầu 2 Rutherford cười rất thoải mái: "Vậy thì điều này đương nhiên có thể giải thích được mọi chuyện rồi. Lịch sử mãi mãi không bao giờ để lộ cho người đời biết về những kết quả có được trong việc giải mã hàng ngày của các vị trung uý không quân trong chiến tranh, cũng sẽ không đề cập đến những lời lẽ đanh thép trong các buổi nói chuyện ở đại sứ quán".

 photo modau2-w_zps64f18c46.jpg

Rutherford cười rất thoải mái: "Vậy thì điều này đương nhiên có thể giải thích được mọi chuyện rồi. Lịch sử mãi mãi không bao giờ để lộ cho người đời biết về những kết quả có được trong việc giải mã hàng ngày của các vị trung uý không quân trong chiến tranh, cũng sẽ không đề cập đến những lời lẽ đanh thép trong các buổi nói chuyện ở đại sứ quán".

"Conway làm việc cho lãnh sự quán nhưng không phải là bộ phận ngoại giao" Wyland nói một cách ngạo mạn. Cũng là điều tự nhiên thôi, anh ta không thích câu nói đùa này. Anh ta chỉ lắng nghe những lời lẽ châm chọc như vậy mà không hề nói thêm ý kiến nào khác.

Lúc đó Rutherford đứng lên định đi, anh ta cũng không ngăn lại. Mà cũng muộn rồi, tôi nói rằng cũng phải đi. Khi chúng tôi từ biệt nhau, thái độ của Wyland vẫn bình thản, vẫn lịch sự nhưng cũng vẫn quan cách. Sanders thì lại rất chân thành và nhiệt tình, cậu ta nói rằng hy vọng sau này sẽ được gặp lại chúng tôi.

Sáng hôm sau khi trời còn chưa sáng tôi đã phải rời nơi đây trên chuyến tàu cắt ngang đại lục. Khi tôi và Rutherford đợi taxi, cậu ta hỏi tôi có muốn tới khách sạn mà cậu ta đang ở để khỏi phí quãng thời gian này không. Cậu ta kể rằng ở đó có một phòng khách, chúng tôi có thể cùng nói chuyện. Tôi thấy được thế thì tốt quá. Cậu ta nói tiếp: "Tốt quá, nếu anh đồng ý, chúng ta có thể nói về Conway, trừ phi anh không còn thích thú về những câu chuyện của anh ta nữa".

Tôi trả lời rằng cho dù rất ít gặp nhau, nhưng tôi rất thích: "Cậu ta rời trường khi tôi học kỳ đầu tiên ở Đại học. Nhưng tôi vẫn nhớ có lần anh ta đối xử với tôi rất tốt. Lúc đó tôi là sinh viên mới, anh ta hoàn toàn không có lý do gì để giúp tôi. Tuy đó chỉ là một việc cỏn con, nhưng tôi vẫn rất nhớ."

Rutherford tán đồng: "Đúng vậy, tôi cũng rất thích anh ta, cho dù nếu so sánh về mặt thời gian, sự giao lưu giữa tôi và anh ta cũng rất ít".

Tiếp đó là một khoảng thời gian trầm lắng khác thường. Hiển nhiên rằng lúc đó chúng tôi đều đang nhớ tới một người cùng có ảnh hưởng tới chúng tôi. Sự ảnh hưởng này không chỉ được phán đoán bằng vài lần gặp gỡ ngẫu nhiên như vậy. Từ lúc đó tôi cũng thường phát hiện ra những người đã từng gặp Conway đều nhớ đến anh ta, cho dù là cuộc gặp chính thức hay chỉ gặp trong chốc lát. Là một người thanh niên, anh ta đương nhiên rất xuất sắc. Đối với tôi, lúc biết đến anh ta, tôi đang ở cái tuổi sùng bái những người anh hùng, do đó ký ức về anh ta vẫn còn rất rõ cho đến tận ngày nay, và vẫn mang đầy màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn. Anh ta cao to tuấn tú, không những xuất sắc trong môn thể dục, mà còn nhận được các loại giải thưởng của trường mà bạn biết. Có một lần, một vị hiệu trưởng hay làm việc bằng tình cảm đã thốt lên câu "quá giỏi" để nói về các thành tích anh ta đã đạt được ở trường học. Từ đó về sau, anh ta được gọi bằng biệt hiệu "Conway quá giỏi", và dường như cũng chỉ mình anh ta xứng đáng với biệt hiệu này. Tôi còn nhớ anh ta đã từng diễn thuyết bằng tiếng Hy Lạp trong buổi lễ tốt nghiệp của trường. Anh ta hội tủ đủ sự đa tài, anh tú, sành điệu và sự hoàn mỹ giữa hình thể và trí tuệ, làm cho anh ta vừa giống như một nhân vật hoàn hảo thời Elizabeth, vừa giống như Philip Sydney. Xã hội văn minh của chúng ta ngày nay đã khó có thể tạo ra nhân tài giống như anh ta nữa rồi. Sau khi tôi nói xong những điều đó, Rutherford gật gù: "Đúng vậy, đối với những kẻ thích thú với nghệ thuật và học vấn, nhưng không chịu học hỏi thì chúng ta có một từ trái nghĩa để nói về họ, đó là "đồ nửa mùa", tôi đoán những kẻ đó sẽ gọi Conway bằng cái từ này. Ví dụ những người như Wyland, tôi không thích Wyland lắm, tôi không thể chịu đựng được cái thái độ cao ngạo và đứng đắn của anh ta. Trong đầu anh ta chỉ nghĩ đến việc làm quan, cậu có thấy điều đó không? Cậu còn nhớ những lời anh ta nói không? Nào là "bảo đảm bằng chính danh dự của các cậu"; nào là "Để lộ chuyện này ra", cứ như là Hoàng đế đích thân đến thăm đại giáo hoàng Saint Dominica ý. Tôi rất xem thường loại quan chức ngoại giao này".

Lại một khoảng thời gian trầm lắng, xe chạy qua mấy khu phố cậu ta mới nói tiếp: "Cho dù như vậy, tôi sẽ không quên buổi tối hôm nay. Đối với tôi, nghe câu chuyện xảy ra ở Baskul mà Sanders kể là một sự việc đặc biệt mà tôi đã trải qua. Cậu biết không, trước đây tôi đã từng nghe kể về câu chuyện này nhưng vẫn chưa tin. Câu chuyện ly kỳ quá, cho dù tôi vẫn chưa tìm ra được lý do nào để tin hoàn toàn, hoặc trước đây cho dù thế nào cũng chỉ có thể tin một chút thôi. Còn bây giờ đã có hai lý do nho nhỏ để tôi tin rồi. Tôi dám nói rằng cậu biết tôi không phải là người dễ bị mắc lừa. Tôi đã dành phần lớn thời gian và sức lực của mình để đi du lịch, tôi biết trên thế giới còn có rất nhiều sự việc kỳ lạ. Nếu anh được tận mắt nhìn thấy thì cho dù sự việc có ly kỳ đến đâu anh cũng sẽ tin. Còn nếu chỉ nghe người khác kể lại thì khó mà tin nổi, nhưng..."

Cậu ta hình như ý thức được rằng những lời nói của mình có thể không có ý nghĩa với tôi nên đã cười phá lên: "Được rồi, nhưng có một chuyện chắc chắn là tôi không thể coi Wyland làm bạn tri âm để kể với anh ta những chuyện này. Việc đó giống như đem một cuốn sử thi bán cho tạp chí lá cải vậy. Tôi chấp nhận thử vận may với anh nên đã tâm sự với anh".

"Cậu đề cao tôi quá!" Tôi nói.

"Sách của anh cũng không làm tôi suy nghĩ đến như thế".

Tôi không hề nghĩ đến việc tôi được so sánh với nhà văn có trình độ nào đó (dù sao thì không phải ai cũng mở được phòng khám bệnh thần kinh). Cuối cùng thì Rutherford cũng hiểu được một số điều, làm cho tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Sau khi tôi đã nói ra hết những suy nghĩ của mình, cậu ta mới nói tiếp: " Không sai, anh biết đấy, tôi rất thích câu chuyện này vì Conway đã từng mắc bệnh mất trí".

Chúng tôi tới khách sạn, anh ta đi lấy chìa khoá ở quầy lễ tân. Khi chúng tôi đi thang máy lên tầng 5, cậu ta bỗng nói: "Những lời nói vừa rồi chỉ làm cho câu chuyện thêm phần ly kỳ thôi. Thực ra, Conway chưa chết. Ít nhất là mấy tháng trước anh ta vẫn còn sống". Nói về câu chuyện này trong cái không gian chật hẹp lúc thang máy đi lên làm tôi dường như không chịu nổi. Một lát sau khi ra đến hành lang, tôi mới hỏi: "Cậu có khẳng định đây là sự thật không? Sao cậu lại biết?".

Cậu ta vừa mở cửa vừa trả lời: "Vì tháng 11 năm ngoái, tôi cùng cậu ta bay từ Thượng Hải đến Honolulu". Cậu ta không nói gì thêm cho đến khi chúng tôi ngồi xuống ghế. Rót đồ uống, châm xì-gà xong cậu ta mới nói tiếp: "Anh biết không, mùa thu năm ngoái, tôi đi nghỉ ở Trung Quốc. Tôi luôn đi du lịch khắp nơi. Đã nhiều năm không gặp Conway, chưa từng thư từ liên lạc với anh ta và cũng không thể nói là thường xuyên nhớ đến anh ta, nhưng chỉ cần tôi nhớ lại thì khuôn mặt của anh ta nhẹ nhàng hiện ra trong đầu tôi. Lần đó, sau khi tôi đến Hán Khẩu thăm một người bạn, tôi đi tàu nhanh trở lại Bắc Bình (tên gọi cũ của Bắc Kinh - ND) . Trên tàu, tôi tình cờ có cuộc trò chuyện rất thú vị với một vị Viện trưởng viện nữ tu từ thiện của Pháp. Tu viện của bà ta ở Trùng Khánh. Vì tôi có biết chút tiếng Pháp nên bà đã dường như rất vui được nói chuyện với tôi về công việc của mình và về cả những câu chuyện khác nữa. Thực ra, tôi không thích thú lắm với các tổ chức tôn giáo. Nhưng cũng giống như nhiều người khác hiện nay, tôi phải thừa nhận tự giác đứng trên cùng lập trường giai cấp với các tín đồ Thiên chúa giáo, vì ít ra họ cũng đang chăm chỉ làm việc, họ không thể hiện thái độ dương dương tự đắc trước những người bình thường. Tiện thì nói vậy thôi, chúng ta hãy quay trở lại câu chuyện chính. Điểm mấu chốt là khi vị nữ tu nói chuyện với tôi về bệnh viện của giáo hội ở Trùng Khánh, bà có nhắc đến một người bệnh bị sốt cao mới được đưa đến đó vài tuần trước. Họ cho rằng anh ta dứt khoát phải là người châu Âu, cho dù anh ta không có bất kỳ lời giải thích nào về tình trạng của bản thân, và cũng không có bất kỳ thứ giấy tờ tuỳ thân nào. Anh ta mặc trang phục địa phương, nhưng là loại trang phục của những người nghèo khổ nhất. Anh ta ốm rất nặng khi được các vị nữ tu đưa đến bệnh viện, anh ta nói tiếng Trung rất lưu loát và nói tiếng Pháp cũng rất tốt, người bạn đồng hành trên chuyến tàu đó đã bảo đảm với tôi như thế. Trước khi biết được quốc tịch của các sơ, anh ta đã nói chuyện với các sơ bằng thứ khẩu ngữ tiếng Anh rất chuẩn. Tôi có nói rằng tôi không thể hình dung ra được cảnh tượng đó, nhưng rồi tôi cũng nói đùa với bà Viện trưởng rằng bà ta làm sao có thể đoán được thứ tiếng đó có chuẩn hay không trong khi không hiểu gì về ngôn ngữ đó. Rồi chúng tôi tiếp tục nói đùa về câu chuyện này và cả những câu chuyện khác nữa. Cuối cùng, bà Viện trưởng có mời tôi tới thăm tu viện của bà nếu có dịp. Đương nhiên là lúc đó lời mời này cũng giống như việc bảo tôi trèo lên đỉnh Chô-mô-lung-ma mà thôi. Khi tàu đến Trùng Khánh, chúng tôi bắt tay từ biệt nhau, từ tận đáy lòng tôi rất lấy làm tiếc vì phải chia tay với cuộc gặp tình cờ ở đây. Nhưng rồi sự nuối tiếc của tôi đã không phải kéo dài. Vài tiếng sau tôi đã trở lại Trùng Khánh, vì khi tàu vừa chạy được vài ki-lô-mét thì gặp phải sự cố, chúng tôi đã phải rất vất vả mới trở lại được nhà ga. Tôi biết, để thay được động cơ máy nổ thì không thể đến được nơi cần đến trong 12 giờ đồng hồ. Những tình huống này thường xuyên xảy ra với đường sắt Trung Quốc. Do đó, tôi có thể ở lại Trùng Khánh một buổi sáng. Thế là tôi quyết định đến thăm tu viện theo lời mời của bà Viện trưởng tuyệt vời đó".

Bản dịch riêng cho www.luyendichtiengtrung.com