Chi tiết bài viết

Đường chân trời đã mất - Chương 6-2

Đường chân trời đã mất - Chương 6-2 Conway cười phá lên. “Không chỉ dừng ở đó đâu, Mallison, cậu cứ nghĩ xem. Cô búp-bê bằng ngà này rất lịch sự, ăn mặc đẹp, gương mặt xinh xắn, chơi đàn rất hay, và rất dịu dàng, cô ấy không ồn ào như trong phòng chơi khúc côn cầu. Còn ở châu Âu, theo tôi, phần lớn phụ nữ đều thiếu đức hạnh đó”.

chuong 6-2 photo Chuong6-2_zpsed859cad.jpg

Rõ ràng đó là trạng thái tinh thần tốt, thậm chí đến cả Mallison, người rất ít đồng cảm với các giáo sĩ truyền giáo ngoại quốc cũng tỏ ý khâm phục cô. “Họ nên cử cô tới đây”, cậu ta nói, “Tất nhiên nếu cô cũng thích nơi này”.

“Đây không phải là chuyện thích hay không”, cô Brinklow căn vặn, “Tất nhiên sẽ không có ai thích nơi này –Làm sao lại có người thích nơi này được chứ? Đó là vấn đề thấy rằng mình phải đi làm điều gì đó”.

“Tôi nghĩ”, Conway nói, “Nếu như tôi là một người truyền giáo, tôi sẽ tình nguyện chọn ở đây, và vứt bỏ hết những nơi khác”.

“Nếu đúng như vậy,” cô Brinklow bỗng chuyển giọng rất nghiêm túc, “Chắc chắn sẽ không thành công”.

“Nhưng điều tôi nghĩ không phải là sự thành công”.

“Vậy thì sẽ rất đáng tiếc. Chỉ làm việc dựa vào ý thích của bản thân sẽ không phải là điều tốt, hãy xem những người ở đây ý!”

“Trông họ đều rất vui vẻ mà.”

“Anh nói rất đúng”, cô gái trả lời có chút kích động, rồi nói tiếp: “Cho dù thế nào đi nữa, tôi nghĩ tại sao mình không bắt đầu bằng cách học thứ ngôn ngữ ở đây nhỉ? Ông có thể cho tôi mượn một cuốn sách về vấn đề này không, ông Trương?”

Ông Trương trả lời bằng thứ tiếng Anh rất lưu loát và truyền cảm: “Tất nhiên là không có gì khó khăn, thưa cô, tôi rất vui được giúp đỡ cô. Ý tôi muốn nói, đây là một ý kiến tuyệt vời”.

Tối hôm đó, họ trở lại Shangri-la, ông Trương coi đó là một việc quan trọng cần phải làm ngay nên lập tức đi tìm sách cho cô gái. Khi mới nhìn thấy cuốn sách của một tác giả nổi tiếng được biên soạn bởi người Đức ở thế kỷ 19, cô cảm thấy hơi nản lòng, vì cô vốn hình dung ra đó chỉ là một cuốn sách mỏng kiểu như “Nâng cao tiếng Tạng của bạn”. Nhưng dưới sự giúp đỡ của ông Trương và sự khích lệ của Conway, cô đã có được sự khởi đầu tốt và rất nhanh chóng hài lòng với phần học tiếng.

Conway cũng tìm được rất nhiều thú vui, ngoài những vấn đề luôn choán hết tâm trí cậu. Trong những ngày ấm áp và chan hòa ánh mặt trời, cậu tranh thủ tận dụng triệt để thư viện và phòng âm nhạc ở đây, ấn tượng của cậu về văn hóa tu tập phi phàm của các Lạt-ma cũng sâu sắc hơn. Cho dù thế nào thì họ cũng rất thích thú đối với sách vở. Tập thơ Omar bằng tiếng Anh của tác giả Plato người Hy Lạp; một cặp nhà triết học Nietzsche và lý luận của Newton; sách của Thomas More cũng có; rồi Hannah More, Thomas Moore, George Moore, thậm chí cả những tác phẩm của Old Moore nữa. Conway nhẩm tính ở đây phải có tới 2-3 vạn cuốn sách. Những cuốn sách này được lựa chọn như thế nào, và chúng được chuyển tới đây bằng cách nào, tất cả vẫn còn là câu hỏi. Cậu cố gắng tìm kiếm cuốn sách mới nhất được đưa đến vào lúc nào, nhưng cũng không thấy cuốn nào ra đời muộn hơn cuốn “Im Western Nichts Neutes”.

Trong một lần đến thăm sau đó, ông Trương cho cậu biết cũng còn một số sách mãi đến những năm 30 của thế kỷ 20 mới được xuất bản, đương nhiên, những cuốn sách đó cuối cùng cũng được xếp thêm lên giá sách của thư viện, chúng đã được đưa tới ngôi chùa Lạt-ma này rồi. “Ngài xem, chúng tôi vẫn đi theo thời đại.”- ông ta nói.

“Một số người có thể không đồng ý với quan điểm của ông”, Conway mỉm cười trả lời, “Ông cũng biết đấy, từ năm ngoai, trên thế giới đã xảy ra rất nhiều sự kiện”.

“Đừng vội, thưa Ngài thân mến, cho dù năm 1920 chưa dự báo được mọi việc này xảy ra, hoặc đến năm 1940 mọi người trên thế giới vẫn không thể hiểu hết được cũng không sao”.

“Vậy thì, Ngài không hứng thú với những gì xảy ra trên thế giới gần đây sao?”

“Tôi sẽ rất thích – khi đến lúc thích hợp”.

“Ông cũng biết, ông Trương, tôi nghĩ rằng mình đã bắt đầu hiểu các ông. Nhịp sống của các ông khác với mọi người, nói đúng hơn, đối với các ông, thời gian không mấy quan trọng so với đa số người khác. Ví dụ tôi ở London, tôi luôn vội đi kiếm một tờ báo mới, chậm một tiếng cũng không được; còn ở Shangri-La, đến tờ báo cũ từ một năm trước các ông cũng không muốn xem. Đối với tôi, thái độ này thật sự đáng khâm phục. Tiện đây tôi xin hỏi thêm, đợt khách đến thăm các ông gần nhất cách bây giờ bao lâu rồi?”

“Điều này… thưa Ngài Conway, rất tiếc là tôi không thể cho Ngài biết được”.

Cuộc nói chuyện thường kết thúc như vậy, Conway cũng không vì thể mà cảm thấy khó chịu, ngược lại, điều thật sự làm cậu thấy đau đầu là những lúc ông Trương cố gắng hết sức nói chuyện và câu chuyện dường như không thể chấm dứt. Cơ hội gặp mặt của họ ngày càng nhiều hơn, cậu cũng rất thích ông Trương, cho dù điều luôn làm cậu thấy mơ hồ là rất ít gặp những Lạt-ma khác. Cứ giả dụ như các Lạt-ma khác rất khó tiếp cận thì ngoài ông Trương ra, chẳng nhẽ không còn người tình nguyện nào khác hay sao?

Đương nhiên, còn có một cô gái người Mãn. Đôi lúc cậu có gặp cô gái khi đến phòng nhạc, nhưng cô không biết tiếng Anh, còn cậu thì vẫn chưa muốn để lộ việc mình biết tiếng Hán. Cậu không thể phân biệt được lúc nào cô chơi đàn, lúc nào là luyện đàn. Khi cô chơi đàn, mọi cử chỉ đều rất tao nhã. Cô hay chọn những bản nhạc kinh điển như Bach, Corelli, Scallarti và đôi khi cả nhạc của Mozart. So với dương cầm, cô gái thích chơi đàn harp hơn. Nhưng khi Conway chơi dương cầm, cô rất chăm chú và lịch sự lắng nghe. Cậu không thể biết được cô gái đang nghĩ gì, thậm chí đến tuổi của cô cũng rất khó đoán. Cậu không chắc cô gái khoảng ngoài 30 tuổi hay mới 13; điều làm người ta rất hiếu kỳ là cho dù hai sự dự đoán này có khoảng cách khá xa, nhưng cũng không thể loại trừ bất kỳ khả năng nào.

Đôi lúc Mallison cũng đến nghe nhạc vì không tìm thấy thú vui nào khác. Cậu ta cảm thấy cô gái là người rất khó hiểu. “Tôi không hiểu cô ấy làm cái gì ở đây?”, cậu ta không chỉ một lần nói với Conway, “Trong số Lạt-ma, những người đứng đầu được như ông Trương quả là rất tuyệt, nhưng đối với một cô gái thì có gì thu hút chứ? Tôi rất muốn biết cô ấy ở đây bao lâu rồi?”

“Tôi cũng rất tò mò, nhưng đó lại là một chuyện mà chúng ta không thể biết được.”

“Anh có cho rằng cô gái thích ở đây không?”

“Tôi phải nói rằng trông cô gái không có vẻ gì là bị giam giữ cả”.

“Về vấn đề này, cô ấy gần như không có chút tình cảm gì. Cô ấy không giống như con người, mà giống như một con búp-bê bằng ngà”.

“Cho dù thế nào thì cũng rất quyến rũ”.

“Xem ra thì như vậy”.

Conway cười phá lên. “Không chỉ dừng ở đó đâu, Mallison, cậu cứ nghĩ xem. Cô búp-bê bằng ngà này rất lịch sự, ăn mặc đẹp, gương mặt xinh xắn, chơi đàn rất hay, và rất dịu dàng, cô ấy không ồn ào như trong phòng chơi khúc côn cầu. Còn ở châu Âu, theo tôi, phần lớn phụ nữ đều thiếu đức hạnh đó”.

“Cậu đã quá diễu cợt những người phụ nữ rồi đấy, Conway”

Conway đã quen với những lời chỉ trích kiểu này. Thực ra, cậu không giao tiếp nhiều với phái nữ, trước đây, trong một chuyến đi nghỉ ở Ấn Độ, tiếng tăm về chuyện diễu cợt phụ nữ của cậu đã lan truyền khắp nơi rồi. Cậu cũng đã từng có vài mối quan hệ thú vị, chỉ cần cậu cất lời, các cô gái đều sẵn sàng lấy cậu ngay – nhưng cậu đã không nói gì. Cậu đã có lần định đăng quảng cáo kết hôn trên tờ Morning Post, nhưng cô gái đó không thích sống ở Bắc Kinh, còn cậu lại không muốn đến nơi cô ấy sống, hai bên đều không chịu nhường nhau và đều chứng minh là không thể rời khỏi nơi mình đang sống. Cũng coi như cậu có kinh nghiệm với phụ nữ, cậu đã từng thử, lúc có lúc không, nhưng đều không mang lại kết quả gì. Cậu cũng không thật sự diễu cợt phụ nữ.

Bản dịch riêng cho www.luyendichtiengtrung.com

                                                     

LỚP LUYỆN DỊCH VĂN BẢN liên tục nhận học viên bạn nhé!