Chi tiết bài viết

Đường chân trời đã mất - Chương 1-2

Đường chân trời đã mất - Chương 1-2 Sau khi đám người đã đổ đầy và đậy nắp bình xăng, chúng đưa qua cửa sổ lên khoang máy bay một thùng đựng xăng chứa đầy nước. Tuy những tên đó không cố ý nhưng chúng không trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Sau khi tên phi công tiếp tục nói chuyện với đám người đó một lúc đã trở lại khoang lái, một tên Pathan vụng về quay chiếc bánh đà, máy bay lại cất cánh. Ở một nơi chật hẹp mà lại đổ đầy xăng như vậy,

 photo Chuong1-2_zps020ac243.jpg

Sau khi đám người đã đổ đầy và đậy nắp bình xăng, chúng đưa qua cửa sổ lên khoang máy bay một thùng đựng xăng chứa đầy nước. Tuy những tên đó không cố ý nhưng chúng không trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Sau khi tên phi công tiếp tục nói chuyện với đám người đó một lúc đã trở lại khoang lái, một tên Pathan vụng về quay chiếc bánh đà, máy bay lại cất cánh. Ở một nơi chật hẹp mà lại đổ đầy xăng như vậy, việc cất cánh càng thể hiện kỹ thuật điêu luyện hơn cả lúc hạ cánh. Máy bay bay cao dần và lại chui vào lớp mây mù. Sau đó, máy bay chuyển hướng bay về phía Đông, dường như hướng bay đã được điều chỉnh. Lúc đó là khoảng ba giờ chiều.

Quả là một sự việc khác thường nhưng không thể hiểu nổi! Sau khi làn gió lạnh làm họ bừng tỉnh, những vị khách vẫn không thể tin được sự việc đó đã xảy ra thực sự. Hành động này không thể gặp lần thứ hai trong sự hỗn loạn xảy ra nơi tiền tuyến và chưa từng có tiền lệ để so sánh . Xem ra khó thoát nổi kiếp nạn. Sự hoài nghi làm cho con người thêm phấn khích, điều này rất bình thường, sau khi cơn phẫn nộ qua đi, phần còn lại là sự bất an và những suy đoán về hiện trạng. Mallison cho rằng có người bắt cóc họ để đòi tiền chuộc, không có sự suy đoán nào dễ dàng được mọi người chấp nhận hơn. Tuy nhiên cách mà gã phi công làm không hề giống với các cách thông thường, nhưng quỷ kế này đã quá nhàm rồi. Hãy nghĩ xem, câu chuyện này không chỉ họ mới gặp phải, hãy để họ thư giãn một chút, suy cho cùng, trước đây đã từng xảy ra một số vụ bắt cóc, nhưng rồi phần lớn đều có kết cục tốt. Những kẻ thổ dân đó lâu nhất cũng chỉ giam giữ con tin trong hang động một thời gian, đợi khi Chính phủ trả xong tiền chuộc thì sẽ thả con tin. Bạn cũng sẽ được đối đãi như thế, hơn nữa số tiền chuộc ý cũng không phải tiền của bạn. Chỉ có điều, phải trải qua toàn bộ sự kiện đó sẽ làm người ta chán ghét, cuối cùng không quân cũng cử một trung đội oanh tạc, họ sẽ kể cho họ nghe một đoạn của câu chuyện truyền kỳ đặc sắc trong quãng thời gian sống sót còn lại của họ. Mallison nói cho mọi người suy nghĩ của mình và có vẻ căng thẳng. Người Mỹ Barnard cố ý pha trò không đúng lúc: “Được rồi, các quý ông, tôi cho rằng, việc này rất có thể là ý tưởng của một ai đó, nhưng tôi chưa thấy không quân của các anh có được chiến tích huy hoàng nào. Người Anh các vị thường lấy các vụ trộm cướp ở khắp nơi ví như Chicago ra làm trò cười, nhưng tôi không nghĩ rằng lại có một tên vô lại nào ôm súng trên một chiếc máy bay của Chú Sam (Uncle Sam). Tiện đây tôi cũng nói thêm rằng, tôi rất muốn biết thằng cha đó đã làm gì đối với viên phi công thật rồi, tôi dám cá rằng anh ta đã bị nhét trong một bao cát rồi”. Nói xong, anh ta liền ngáp dài. Anh ta là một người vừa cao vừa béo, đối lập với khuôn mặt đầy nếp nhăn nhưng thân thiện là đôi mắt hiện rõ vẻ bi quan. Ở Baskul, không ai biết rõ về anh ta, mà chỉ biết rằng anh ta đến từ Persia, và đoán rằng sự nghiệp của anh ta có liên quan một chút đến dầu mỏ.

Lúc này Conway đang làm một việc thực tế hơn. Cậu thu gom các mẩu giấy của mỗi người, viết lên đó những thông tin cầu cứu bằng các thứ tiếng, cứ bay được một đoạn lại thả xuống vài tờ. Ở một nơi hiếm thấy người như chỗ này, hy vọng không nhiều nhưng cứ nên thử xem.

Vị khách thứ tư trên máy bay là cô Brinklow, cô mím chặt môi và ngồi thẳng lưng trên ghế, gần như không nói câu nào và không hề phàn nàn. Đó là một cô gái nhỏ nhắn nhưng có cá tính mạnh mẽ. Lúc này, cô gái dường như bị bắt buộc tham gia vào một cuộc thắng thua mà cô không thể chấp nhận.

Conway không có thời gian để phát biểu ý kiến của mình như hai vị khách nam giới kia, cậu đang bận dịch những bức thư cầu cứu gấp, việc này cần cậu phải tập trung cao độ. Nhưng khi được hỏi, cậu vẫn trả lời, và tạm thời đồng ý với suy đoán của Mallison là “bị bắt cóc”. Ở một mức độ nào đó, do cũng có đồng cảm với sự trách móc lực lượng không quân của Barnard, nên cậu nói: “Đương nhiên, quá trình phát sinh sự việc này có thể suy đoán được. Thế cục ở đó đang rối loạn, hai người mặc đồng phục không quân đó rất dễ trà trộn. Sẽ không ai nghi ngờ một người mặc đồng phục đang đi làm nhiệm vụ. Còn cái gã này chắc chắn biết được điều gì đó – ví dụ như tín hiệu. Rất hiển nhiên rằng, hắn cũng rất thạo lái máy bay…còn nữa, tôi đồng ý với ý kiến của anh, sự việc này chắc chắn sẽ có người gặp xui xẻo, anh cũng tin thế chứ, cho dù tôi nghĩ rằng người đó không đáng bị đối xử như vậy”.

“Vâng, thưa Ngài”, Barnard trả lời: “Tôi thật sự khâm phục Ngài, Ngài đã nhìn thấy hai mặt của vấn đề. Không nghi ngờ gì, đây chính là một tâm hồn trong sáng, cho dù Ngài biết rằng mình đang ở trên con tàu cướp biển”.

Conway phát hiện ra anh chàng người Mỹ này có cách nói rất ngạo mạn, nhưng không làm mất lòng người khác. Cậu cười và không nói thêm điều gì. Đã quá mệt, lúc đó trong đầu chỉ còn nghĩ đến những nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào, không có cách nào thoát khỏi cái mệt. Cho đến cuối buổi chiều, Barnard và Mallison vẫn còn tranh luận về sự việc này, khi họ cần hỏi thêm ý kiến của Conway về vài vấn đề thì mới phát hiện ra cậu đã ngủ từ lúc nào rồi.

“Đã quá mệt mỏi” Mallison than thở, “Cũng chả có gì lạ sau khi trải qua các sự việc như vài tuần vừa rồi”.

“Anh là bạn anh ta à?” Barnard hỏi.

“Tôi và cậu ta cùng làm việc ở Lãnh sự quán. Tôi cũng chỉ ngẫu nhiên biết được cậu ta đã không hề được ngủ trong 4 ngày. Thực ra, chúng ta cũng coi như gặp may vì có cậu ta cùng bị nhốt trong khoang chiếc máy bay khốn kiếp này. Ngoài việc biết tới mấy ngoại ngữ ra, cậu ta còn rất biết cách giao tiếp. Nếu có người có thể giúp chúng ta thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm này, không ai khác, chính là cậu ta. Cậu ta luôn xử lý sự việc một cách lạnh lùng”.

“Ồ, vậy thì hãy để anh ta ngủ”. Barnard cũng đồng tình .

Cô Brinklow đến lúc này mới cất lời: “Tôi thấy, anh ta giống như một người dũng cảm”.

Còn Conway lại không tin rằng mình là một người dũng cảm. Cậu rất mệt, tuy nhắm mắt nhưng không hề ngủ. Conway có thể nghe và cảm nhận được mọi sự chuyển động của máy bay. Cậu nghe được lời tán dương mình của Mallison, nhưng cũng bắt đầu cảm thấy khó chịu vùng bụng, mỗi khi tinh thần căng thẳng, cơ thể cậu thường có phản ứng. Theo những kinh nghiệm đã qua, cậu ta biết mình không phải là người đi vào chỗ mạo hiểm vì thích mạo hiểm. Tuy nhiên về một mặt nào đó, cậu ta thích sự kích động để giải sầu, nhưng cũng không vì thế mà cậu ta mạo hiểm với tính mạng của mình. 12 năm trước, cậu đã dứt bỏ sự mạo hiểm trong cuộc chiến ở Pháp, cậu đã vài lần thoát chết cũng nhờ dứt bỏ được sự mạo hiểm mà có thể sẽ không có kết quả. Những tấm huân chương đặc biệt của cậu không phải có được nhờ vào sự dũng cảm, mà dành cho sự nhẫn nại từ một đợt tập huấn đầy khó khăn nào đó. Từ khi chiến tranh nổ ra, mỗi khi phải đối mặt với sự nguy hiểm đều làm cậu tăng thêm hứng thú, trừ phi sự nguy hiểm đó làm cậu cực kỳ sự hãi.

Conway vẫn nhắm mắt, nghe những lời nói của Mallison mà thấy cảm động và cũng thấy buồn. Cuộc đời đã định sẵn, mọi người luôn hiểu lầm sự trấn tĩnh của cậu là sự dũng cảm, còn trên thực tế, cậu là người rất lạnh lùng đối với những sự việc thiếu khí chất đàn ông. Hiện tại, mọi người đang ở vào tình huống rất tồi tệ, nhưng đối với cậu, bản thân chưa đủ dũng khí, hơn nữa người thủ lĩnh không được bực mình với bất kỳ tình huống nào. Ví dụ như, Conway có thể dự kiến được việc cậu phải quyết định làm thế nào theo dự đoán ở một tình huống nào đó, còn với cô Brinklow, đó là một cô gái, nên cô ta sẽ để ý đến sự việc này hơn những người khác. Cậu cũng rất sợ chính mình sẽ có những hành động gì đó quá mức ở tình huống này.

Thế nhưng, khi cậu làm bộ như vừa tỉnh giấc, việc đầu tiên là nói chuyện với cô Brinklow. Cậu nhận ra rằng cô gái không còn trẻ và cũng không xinh – khuyết điểm lớn nhất này đã để lại một chút gì đó trong ấn tượng ban đầu, Conway tiếc cho cô gái, vì cậu cảm giác Mallison và người Mỹ kia đều không thích những đạo sĩ truyền đạo, nhất là nữ truyền giáo. Tuy cậu không có thành kiến gì về chuyện này, nhưng vẫn sợ cô gái sẽ không quen với sự thẳng thắn của mình, thậm chí có thể sẽ vì thế mà bối rối. “Dường như chúng ta ở vào một tình thế đáng ngờ”. Cậu thì thầm với cô gái, “Nhưng tôi rất vui khi thấy cô vẫn giữ được bình tĩnh, tôi cho rằng sẽ không có chuyện gì đáng ngại xảy ra với chúng ta”.

“Nếu anh có thể ngăn chặn được, tôi sẽ tin là không có chuyện gì xảy ra”. Câu trả lời của cô gái không làm cậu cảm thấy được an ủi chút nào.

“Hãy cho tôi biết, chúng ta có thể làm gì để có thể giúp cô thấy dễ chịu hơn”.

Barnard vội chộp lấy câu này, “Dễ chịu?”. Anh ta lặp lại từ đó bằng chất giọng khàn khàn, “Tại sao không chứ, tất nhiên rất dễ chịu, chúng ta chỉ đang hưởng thụ chuyến đi. Tiếc là không có bộ bài ở đây, không thì chúng ta đã có thể chơi vài ván”.

Mặc dù không thích chơi bài, nhưng Conway cũng hưởng ứng thú vui này của Barnard và nói đùa với Brinklow “Tôi đoán cô Brinklow không biết chơi bài”

Nhưng vị nữ truyền giáo này lại ngoái đầu đối đáp lại rất hứng khởi: “Đúng là tôi không biết chơi bài, nhưng tôi chưa từng thấy chơi bài có gì xấu, hơn nữa, trong “Kinh Thánh” cũng không có quy định không cho đánh bài”.

Mọi người đều cười ồ lên vì rất thích thú với cái cớ tuyệt vời mà cô vừa đưa ra. 

 

Bản dịch riêng cho www.luyendichtiengtrung.com