Chi tiết bài viết

Tân cử nhân TQ đối với sự ổn định công việc!

Tân cử nhân TQ đối với sự ổn định công việc! “Thật ra chúng tôi sẵn sàng chịu vất vả, điều quan trọng là muốn có được sự nâng cao về năng lực cho bản thân. Những công việc mang tính chất lặp lại mà không mang lại cảm giác có kết quả thật sự rất khó chịu, cảm giác bản thân giống như người công nhân trong dây chuyền sản xuất.”

VIDEO LUYỆN PHÁT ÂM TIẾNG TRUNG CHUẨN

Năm nhuận tính thế nào

Thế nào là bán phá giá?

Kinh nghiệm học ngữ pháp

Cách tra phiên âm khi gặp từ mới

-----

近日,人人网旗下的招聘网站——人人校招发布《2013初入职场员工满意度调研报告》。该报告共收到有效问卷7万余份,其中来自入职两年的“90后”高校毕业生的问卷占6.1万份。报告显示,工作挑战性较小、内容过于单调成为“90后”毕业生对工作不满意的主要原因。同时,一半以上的毕业生对工作团队氛围表示失望。

Gần đây, trên trang Tuyển dụng thuộc website: www.renren.com có đăng tải “Báo cáo khảo sát mức độ hài lòng của nhân viên với công việc mới của năm 2013”. Báo cáo này đã nhận được hơn 70 nghìn phiếu điều tra hợp lệ, trong đó có 61 nghìn phiếu của các cử nhân “9X” mới đi làm được 2 năm. Báo cáo cho thấy, sự thách thức khá nhỏ trong công việc và nội dung quá đơn điệu trở thành nguyên nhân chính của sự không hài lòng đối với công việc của các cử nhân “9X”, đồng thời, hơn một nửa số cử nhân thể hiện sự thất vọng đối với không khí làm việc theo nhóm trong công việc.

感觉自己像流水线上的工人”

“Cảm giác bản thân giống như công nhân trong dây truyền sản xuất”

该报告显示,51.27%的被调查者将工作挑战性较小、内容单调选为其对工作内容不满意的最主要原因。有意思的是,虽然有43.47%的被调查者每天工作超过8小时,但将“工作量过大”选为对工作内容不满原因的却只有18.14%。

Báo cáo này cho thấy, 51,27% người được khảo sát lựa chọn sự thách thức khá nhỏ trong công việc và nội dung quá đơn điệu là nguyên nhân chủ yếu nhất của sự không hài lòng đối với nội dung công việc đó. Điều thú vị là tuy có tới 43,47% người được khảo sát làm việc trên 8 giờ mỗi ngày, nhưng lại chỉ có 18,14% lựa chọn “Lượng công việc quá lớn” là nguyên nhân không hài lòng đối với công việc.

对这样的反差,从北京某“985”高校毕业两年的小韩并不惊讶:“我们其实挺愿意吃苦的,关键是想得到自身能力的提升。没有成就感的重复劳动确实很让人难受,感觉自己像流水线上的工人。”

Về sự trái ngược như vậy, Tiểu Hàn – cử nhân tốt nghiệp được 2 năm ở một trường Đại học “985” (Trường xây dựng theo chuẩn quốc tế-LDTTg) ở Bắc Kinh không hề ngạc nhiên: “Thật ra chúng tôi sẵn sàng chịu vất vả, điều quan trọng là muốn có được sự nâng cao về năng lực cho bản thân. Những công việc mang tính chất lặp lại mà không mang lại cảm giác có kết quả thật sự rất khó chịu, cảm giác bản thân giống như người công nhân trong dây chuyền sản xuất.”

在某著名央企负责企业杂志编辑工作的小韩说,由于工作简单、单调,自己很难感受到工作的意义。每天,小韩都要处理来自该企业全国分支机构的稿 件。然而,在出身新闻专业的小韩看来,这些稿件绝大多数属于传统的宣传套路,行文枯燥。更让小韩觉得没意思的是,辛辛苦苦编好的稿件,只能发在企业内刊 上,“出了这个系统,估计也就没人看了”。

Tiểu Hàn phụ trách công việc biên tập tạp chí doanh nghiệp của một doanh nghiệp trung ương nổi tiếng cho biết, do công việc đơn giản, đơn điệu, bản thân rất khó cảm nhận được ý nghĩa trong công việc. Hàng ngày, Tiểu Hàn phải xử lý bản thảo được gửi từ các cơ cấu chi nhánh trên toàn quốc của doanh nghiệp này. Nhưng với người xuất thân từ chuyên ngành báo chí như Tiểu Hàn, phần lớn các bản thảo này đều là các văn bản hành chính khô khan hoặc đường lối tuyên truyền theo truyền thống. Điều khiến Tiểu Hàn càng thấy vô nghĩa hơn là các bản thảo đã vất vả biên tập chỉ được đăng tải trên các tạp chí nội bộ của doanh nghiệp, “Ngoài hệ thống này ra, chắc sẽ không có ai đọc”.

这给小韩造成很大的心理落差。在校期间,小韩是校园刊物的负责人,策划过一系列轰动校园的报道,一些报道还推动了具体问题的解决。“没想到工作后,这种小小的成就感连一次都没感觉到。”小韩说。

Điều này đã gây khoảng cách tâm lý rất lớn cho Tiểu Hàn. Trong thời gian học Đại học, Tiểu Hàn là người phụ trách tạp chí của trường, cậu đã từng lên kế hoạch cho hàng loạt tin tức “hot” trong trường, những thông tin này đã thúc đẩy được việc giải quyết các vấn đề cụ thể. “Không ngờ sau khi đi làm, những cảm giác về thành quả nhỏ bé đó chưa một lần tôi cảm nhận được” – Tiểu Hàn kể.

此外,虽然外界常给“90”贴上“独立、个性、标新立异”的标签,该报告却显示,对企业工作氛围不满意的员工样本中,高达50.75%的人认为团队协作精神欠佳是其不满意的最主要原因,远高于上下级关系疏远(23.51%)以及同事间人际关系冷淡(16.42%)。

Ngoài ra, tuy xã hội thường khoác cho thế hệ “9X” cái mác “Độc lập, cá tính, sáng tạo”, thì báo cáo này lại cho thấy, trong số nhân viên không hài lòng với không khí làm việc ở doanh nghiệp, có tới 50,75% số người cho rằng thiếu tinh thần làm việc theo nhóm, tỷ lệ này cao hơn sự xa cách về quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới (23,51%) cũng như sự lạnh nhạt trong quan hệ giao tiếp giữa các đồng nghiệp (16,42%).

 

对工作有心,就一定能取得突破”

“Chuyên tâm vào công việc sẽ có được sự đột phá”

 清华大学博士研究生、中国青少年科技创新奖获得者张金松从自己的科研经历出发,给出建议:“重复性的工作并不可怕,只要你有心,一样可以取得突破。”

Trương Kim Tùng - Nghiên cứu sinh thạc sĩ của Đại học Thanh Hoa, người được giải thưởng sáng tạo công nghệ thanh thiếu niên Trung Quốc đưa ra kiến nghị xuất phát từ trải nghiệm nghiên cứu khoa học của bản thân: “Đừng sợ những công việc mang tính lặp lại, chỉ cần bạn chuyên tâm sẽ có được sự đột phá”.

在一项实验中,张金松每天都要测量样品,这种重复性的工作持续了两年。但是,在日复一日的重复中,张金松琢磨出新的操作方法,使实验效率提高了7倍。张金松说:“年轻人极少有机会和能力一上来就担当大任,从事重复性工作居多,但突破创新恰恰最容易从打破常规入手。”

Trong một phòng thí nghiệm, Trương Kim Tùng hàng ngày đều kiểm tra hàng mẫu, công việc mang tính lặp lại này đã kéo dài 2 năm. Nhưng, trong sự lặp lại ngày này qua ngày khác đó, Trương Kim Tùng đã tìm ra cách thao tác mới, khiến hiệu quả thí nghiệm nâng cao gấp 8 lần. trương Kim Tùng cho biết: “Các bạn trẻ có rất ít cơ hội và khả năng gánh vác ngay các chức vụ quan trọng, mà phần nhiều làm các công việc mang tính lặp lại, nhưng lại dễ dàng có được sự sáng tạo đột phá từ những công việc thường ngày đó”.

北京某文化公司的项目经理刘金涛告诉记者,他们非常看重新人在日常琐碎工作中的表现,“一个人有没有进取心,对工作是否认真负责,恰恰最能从简单工作中看出来”。

Lưu Kim Đào – Giám đốc dự án của một Công ty văn hóa tại Bắc Kinh cho phóng viên biết, họ rất coi trọng sự thể hiện của các nhân viên mới trong công việc bình thường hàng ngày, “Một người không có chí tiến thủ có chịu trách nhiệm thật sự với công việc hay không, đều có thể thấy được từ những việc làm đơn giản”.

刘金涛举了一个例子:一名大学毕业生加入公关部后,每天的工作就是联系媒体,准备宣传材料。然而他很快就总结出不同媒体的关注点,别人把同一份 材料发给不同媒体,他则是准备各有侧重的材料,并附上潜在采访对象的联系方式。记者因此很乐意和他交朋友,客户对宣传效果也很满意,他也获得提拔。“对工 作这么有心的人,在哪都会被重用。”刘金涛说。

Lưu Kim Đào đưa ra một ví dụ: Một cử nhân sau khi vào làm việc ở Phòng PR, công việc hàng ngày là liên hệ với các cơ quan truyền thông, chuẩn bị tài liệu quảng cáo. Nhưng anh ta có thể nhanh chóng tổng kết được những điểm đáng quan tâm của các hãng truyền thông khác nhau, người khác thì gửi cùng một tài liệu cho nhiều hãng truyền thông, còn cậu ấy thì chuẩn bị các tài liệu trọng tâm, và gửi kèm cách liên hệ với người được phỏng vấn. Vì thế, các phóng viên rất thích kết bạn với cậu ấy, khách hàng cũng rất hài lòng với hiệu quả quảng cáo, và cậu ấy đã được đề bạt. “Đối với những người làm việc chuyên tâm như thế này thì làm việc ở đâu cũng sẽ được trọng dụng”, Lưu Kim Đào nói.

针对“90后”对工作团队协作的诉求,《你也可以进名企》一书作者、国家职业指导师张慕梁认为,职场新人对团队协作应有清晰认识。“很多新人以为协作就是老人帮自己完成工作。但实际工作中,需要个人完成的任务是很多的,团队合作建立在个人工作基础上,一味抱怨协作不力,只是让自己逃避责任。”张慕梁说。

Về những nhu cầu của thế hệ “9X” đối với công việc theo nhóm, giáo viên hướng nghiệp cấp quốc gia, tác giả của cuốn “Bạn cũng có thể vào một doanh nghiệp nổi tiếng” – ông Trương Mộ Lương cho rằng, các cử nhân mới nên có sự nhận thức rõ ràng về làm việc theo nhóm: “Rất nhiều cử nhân mới cho rằng, phối hợp tức là người cũ giúp mình hoàn thành công việc. Nhưng trong công việc thực tế, có rất nhiều nhiệm vụ cần cá nhân hoàn thành, sự hợp tác của nhóm được xây dựng trên cơ sở công việc cá nhân, nếu cứ ôm lấy việc phối hợp không có hiệu quả sẽ chỉ khiến bản thân né tránh trách nhiệm”.

 

气可鼓不可泄,多安排新人从事挑战性工作”

“Chí khí có thể khích lệ chứ không được suy giảm, bố trí cử nhân mới làm công việc mang tính thách thức nhiều hơn”

在首都师范大学教师杨灿坤看来,“90后”的吐糟,对用人单位也是一种提醒。“年轻人表现自己的欲望强烈,企业应该掌握这种心理特点,不能一味按老思路面对新生代。气可鼓不可泄,安排新人从事有一定挑战性的工作,有利于激发他们的积极性。”杨灿坤说。

Nhìn nhận của Giáo sư Dương Sán Khôn thuộc Đại học sư phạm thủ đô, sự phàn nàn của thế hệ “9X” cũng là một sự cảnh tỉnh đối với các đơn vị sử dụng lao động. Ông Dương Sán Khôn nhấn mạnh: “Người trẻ tuổi thể hiện những mong muốn mãnh liệt của bản thân, doanh nghiệp nên nắm được đặc điểm tâm lý này, không thể đối diện với thế hệ mới theo lối tư duy cũ. Chí khí có thể khích lệ chứ không được suy giảm, bố trí cử nhân mới làm công việc mang tính thách thức nhiều hơn, sẽ tốt cho việc phát huy tính tích cực của họ”.

刘金涛告诉记者,公司也已注意到“90后”员工的新特质。如今,公司已经加大对新进大学生的培训力度,同时设立实习项目基金。等培训一结束,这些新人就可自己提出项目进行操作。刘金涛说:“我们不指望项目能立刻带来利润,目的还是希望他们能在项目操作中迅速成长。”

Ông Lưu Kim Đào cho phóng viên biết, Công ty cũng đã chú ý đến những đặc điểm mới của các nhân viên “9X”. Cho đến nay, Công ty đã đẩy mạnh mức độ đào tạo đối với các sinh viên mới, đồng thời thành lập quỹ dự án thực tập. Đợi khi kết thúc đào tạo, các cử nhân mới này có thể tự đề xuất dự án để thực hiện. Ông Lưu Kim Đào cho biết: “Chúng tôi không hy vọng dự án có thể mang lại lợi nhuận ngay, mà mục đích vẫn là hy vọng các em có thể nhanh chóng trưởng thành trong khi thực hiện dự án”.

北京语言大学大四学生林嘉亮表示,如今高校的就业指导课程与职场还是有些脱节。林嘉亮说,老师们常讲就业形势、求职方法和职业生涯规划,但这些内容在网上就可以了解到,“我们特别想听到职场人士现身说法,结合自身经历告诉我们踏入职场应该注意什么”。

Lâm Gia Lượng – sinh viên năm thứ tư Đại học ngôn ngữ Bắc Kinh cho biết, hiện nay, giáo trình hướng nghiệp của các trường đại học có độ chênh so với thực tế. Lâm Gia Lượng còn cho biết, các thầy thường giảng về tình trạng việc làm, cách xin việc và kế hoạch cho nghề nghiệp, nhưng những điều này có thể tìm hiểu trên mạng, “Chúng tôi rất muốn được nghe chính những người đã đi xin việc nói chuyện, kết hợp với sự trải nhiệm của chính họ để cho chúng tôi biết khi chúng tôi bước chân vào thị trường lao động thì cần chú ý những gì”

据张慕梁介绍,目前高校在就业指导上还存在很大缺陷,如多数上课教师其实并无职场经验、一些院校自行编写的教材质量不高、授课形式僵化等。张慕梁建议,高校应聘请具有丰富职场阅历的人员到校授课,同时转变教学模式,将授课从课堂移植在实习实践中。

Theo giới thiệu của ông Trương Mộ Lương, việc hướng nghiệp của các trường Đại học hiện nay vẫn tồn tại những thiếu sót rất lớn, ví dụ như có bao nhiêu giáo viên lên lớp nhưng không có kinh nghiệm làm việc, chất lượng giáo trình một số trường tự biên soạn không cao, hình thức giảng dạy cứng nhắc. Ông Trương Mộ Lương kiến nghị, các trường Đại học nên mời các nhân viên có trải nghiệm phong phú trong công việc đến giảng dạy tại trường, đồng thời thay đổi cách giảng dạy, để các bài giảng được đi vào thực hành trong thực tế. (LDTTg dịch)

Nguồn: www.xinhuanet.cn

Thông tin cho các bạn thật sự cần học dịch văn bản tại đây!