Chi tiết bài viết

Đường chân trời đã mất - Mở đầu 4

Đường chân trời đã mất - Mở đầu 4 Rutherford vừa đưa mắt ngầm bảo tôi bình tĩnh lại vừa tiếp tục nói: “Tôi không biết cậu có phải là người yêu âm nhạc hay không, nhưng cho dù là không phải, tôi dám nói cậu có thể tưởng tượng ra được khi Conway tiếp tục đàn, tôi và Sieveking đã kích động như thế nào. Đương nhiên, đối với tôi, đó là một chút lóe sáng bất ngờ và bí ẩn trong hiện thực của quá khứ của Conway, là chút đầu mối đầu tiên tìm lại quá

mo dau photo modau-w_zps141df3e5.jpg

Rutherford vừa đưa mắt ngầm bảo tôi bình tĩnh lại vừa tiếp tục nói: “Tôi không biết cậu có phải là người yêu âm nhạc hay không, nhưng cho dù là không phải, tôi dám nói cậu có thể tưởng tượng ra được khi Conway tiếp tục đàn, tôi và Sieveking đã kích động như thế nào. Đương nhiên, đối với tôi, đó là một chút lóe sáng bất ngờ và bí ẩn trong hiện thực của quá khứ của Conway, là chút đầu mối đầu tiên tìm lại quá khứ đã mất của anh ta. Còn Sieveking thì chỉ tập trung sự chú ý vào âm nhạc một cách tự nhiên. Điều này rất khó hiểu vì cậu biết đấy, Chopin đã mất từ năm 1849 rồi”.

“Về một ý nghĩa nào đó, toàn bộ sự việc này sẽ khó hiểu như thế cho đến khi tôi thấy nên bổ sung một chút. Lúc đó có ít nhất khoảng 12 người có mặt chứng kiến sự việc này, trong số họ còn có một vị giáo sư nổi tiếng của Đại học California. Đương nhiên là người ta có thể nói một cách dễ dàng rằng nếu xét về mặt thời gian, sự giải thích của Conway hoàn toàn không có khả năng, hoặc là sự việc đó không thể xảy ra. Nhưng bản thân âm nhạc vẫn phải chờ đợi những sự giải thích hợp lý. Nếu đó không phải là tác phẩm của Chopin theo lời của Conway thì đó là bản nhạc nào? Sieveking còn bảo đảm với tôi rằng nếu hai bản nhạc này được xuất bản, thì chỉ trong vòng nửa năm, chúng sẽ trở thành tâm điểm trong các buổi biểu diễn của tất cả các nhà biểu diễn nổi tiếng. Nói như vậy hơi có chút khoa trương, nhưng điều đó cũng thể hiện sự yêu thích của Sieveking đối với hai bản nhạc này.

Sau một lúc tranh luận, chúng tôi vẫn không thể giải quyết được vấn đề gì, vì Conway vẫn cứ khẳng định điều anh ta nói là sự thật. Trông anh ta rất mệt mỏi, thế là tôi vội đưa anh ta rời khỏi chỗ đông người đó về phòng nghỉ ngơi. Cuối cùng là về việc thu âm đĩa nhạc. Sieveking nói rằng khi anh ta tới Mỹ sẽ nhanh chóng thu xếp mọi việc. Conway cũng đồng ý biểu diễn mấy khúc nhạc trong đêm nhạc của anh ta. Nhưng Conway đã không giữ lời. Điều này luôn làm tôi cảm thấy nuối tiếc”. 

Rutherford xem đồng hồ và nhắc tôi còn đủ thời gian ra ga xe lửa. Thực ra câu chuyện của anh ta đã kể xong, anh ta thấy vẫn còn thời gian nên nói tiếp: “Vì buổi tối hôm đó – cái buổi tối độc tấu đó – anh ta đã phục hồi trí nhớ. Sau khi chúng tôi về giường nghỉ, tôi nằm mà mãi không ngủ được. Anh ta đã đến buồng của tôi, nói cho tôi hết mọi chuyện. Anh ta rất căng thẳng, tôi chỉ có thể hình dung biểu hiện của anh ta đau khổ đến tột cùng – đó là sự đau khổ không thể chống cự nổi. À, ý của tôi là – đó là sự lạnh nhạt hoặc một thứ biểu hiện vô tình. Có thể hình dung dáng vẻ của anh ta bằng từ Wehmut (bi thương – tiếng Đức), hoặc Welschmerz (bi quan) hoặc một từ nào khác. Anh ta cho tôi biết anh ta có thể nhớ lại mọi chuyện rồi. Khi Sieveking chơi nhạc, anh ta bắt đầu dần dần nhớ lại một số việc trong quá khứ, tuy nhiên lúc mới đầu chỉ là những đoạn ngắt quãng. Anh ta ngồi cạnh giường tôi một lát, tôi cũng im lặng, không làm phiền anh ta. Tôi muốn anh ta có chút thời gian để nhớ lại quá khứ, sau đó kể lại cho tôi nghe theo cách của anh ta. Tôi nói rằng rất vui mừng khi thấy anh ta phục hồi được trí nhớ, nhưng nếu anh ta muốn quên đi một số chuyện thì tôi thấy rất tiếc. Sau đó, anh ta ngẩng đầu nhìn tôi, nói mấy câu mà tôi cho là để lấy lòng tôi: “Cảm ơn Thượng đế! Rutherford, anh quả là đoán việc như thần”. Một lúc sau, tôi mặc áo và cũng khuyên anh ta nên mặc thêm áo, chúng tôi cùng lên boong tàu đi dạo. Đó là một buổi đêm yên tĩnh, trời đầy sao, thời tiết rất ấm áp. Biển cũng rất yên tĩnh, từng cơn sóng lăn tăn, lấp lánh ánh trăng, giống như bát sữa đặc quánh. Nếu không có sự lắc lư của con tàu, chúng tôi đã tưởng như đang dạo bước trên quảng trường rồi. Tôi cứ để cho Conway kể tiếp câu chuyện theo cách của anh ta. Khi ánh bình minh ló lên, anh ta bắt đầu nói không nghỉ. Khi anh ta kể xong thì đã đến lúc ăn bữa sáng, mặt trời từ từ lên cao, ánh nắng rực rỡ tràn ngập khắp nơi. Tôi nói là “anh ta kể xong” không có nghĩa là sau đó anh ta không cho tôi biết thêm điều gì nữa. Trong 24 giờ tiếp theo, anh ta còn bổ sung thêm rất nhiều chi tiết khác về những tình tiết quan trọng đã bị bỏ qua. Trông anh ta rất không vui và không thể ngủ được, thế là chúng tôi gần như nói chuyện suốt. Khoảng nửa đêm ngày thứ hai, chuyến tàu đã đến Honolulu đúng giờ. Trước đó, chúng tôi ngồi trong phòng của tôi uống rượu và nói chuyện. Anh ta rời phòng tôi khoảng 10 giờ. Từ đó, tôi không gặp lại anh ta nữa”.

“Ý của cậu không phải là…” Trong đầu tôi bất giác hiện lên cảnh tượng tự sát một cách bình tĩnh, cảnh tượng đó tôi đã từng thấy trên chiếc thuyền bưu chính từ Holyhead đến Kingstown.

Rutherford bật cười to: “Ôi, Trời! Không phải vậy – anh ta không phải loại người đó. Anh ta chỉ chạy trốn nhân lúc tôi chưa cho phép thôi. Muốn lên bờ không phải là chuyện khó. Nhưng nếu tôi cho người đi tìm, anh ta sẽ lẩn trốn và việc truy tìm sẽ rất khó khăn. Đương nhiên, tôi cũng đã cho người đi tìm. Sau đó tôi được biết anh ta đã tìm cách xin làm thuyền viên của một tàu vận chuyển chuối và theo thuyền đi đến tận Fiji ở phía Nam”.

“Sao cậu lại biết được chuyện đó”

“Ba tháng sau, anh ta viết thư cho tôi biết chuyện từ Bangkok. Anh ta còn gửi kèm theo thư một tấm chi phiếu và nói rằng đó là để bù đắp lại những chi phí tôi đã bỏ ra cho anh ta. Trong thư, anh ta cảm ơn tôi đã vì anh ta mà làm mọi việc và cho biết anh ta vẫn rất khỏe, anh ta còn cho tôi biết có thể anh sẽ thực hiện một chuyến đi du lịch dài ngày bắt đầu về hướng Tây Bắc. Chỉ có thế thôi”.

“Chỗ anh ta nói là ở đâu?”

“Anh ta nói không rõ, đúng không? Có rất nhiều nơi ở phía Tây Bắc của Bangkok. Nói như vậy, đến Berlin cũng ở phía Tây bắc của Bangkok”.

Rutherford ngừng một lát rồi rót đầy cốc của cả hai. Đó là một câu chuyện ly kỳ - hoặc là anh ta đã kể chuyện ly kỳ quá, tôi cũng không rõ nữa. Trong câu chuyện đó, bản nhạc mà Conway chơi làm cho mọi người rất khó hiểu, nhưng điều làm tôi thấy hứng thú hơn cả là anh ta làm thế nào đến được cái bệnh viện của giáo hội ở Trung Quốc đó. Đơn giản, đó là một câu đố! Sau khi tôi nói ra suy nghĩ đó, Rutherford nói rằng trên thực tế đó là hai mặt của cùng một vấn đề. “Vậy thì, anh ta làm thế nào đến được Trùng Khánh?” Tôi hỏi, “Tôi nghĩ rằng trong cái buổi tối ở trên thuyền đó, anh ta đã kể hết cho cậu rồi chứ?”

Bản dịch riêng cho www.luyendichtiengtrung.com